Bình luận của TS. Phạm Hoài Huấn trên The Saigon Times ngày 09.02.2023
Đại hội đồng cổ đông thường niên cũng là dịp để quyết định rất nhiều thứ quan trọng, trong đó vấn đề chia cổ tức là một trong những điểm được các nhà đầu tư quan tâm. Trong bối cảnh đó, một công ty cổ phần vừa thông qua nghị quyết HĐQT về tiêu chuẩn để tham gia vào “Giới tinh hoa” . Theo đó, điều kiện tiên quyết để bước vào “Giới tinh hoa” là sở hữu 4 triệu cổ phiếu của công ty và có sẵn 1-3 tỷ đồng để công ty huy động tối đa 3 tháng với lãi suất bằng lãi suất tiết kiệm của ngân hàng thương mại X.
Lợi ích của nhà đầu tư khi gi nhập
“Giới tinh hoa” là việc được trả tăng thêm 2% cổ tức của từng năm. Chẳng hạn, cổ
đông bình thường được chia 6% năm thì thành viên giới tinh hoa được trả 8%/năm.
Bên cạnh đó, cổ đông này sẽ được phụ cấp 5 triệu đồng/tháng.
Việc xác nhận “Giới tinh hoa” sẽ căn
cứ vào chính danh sách Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên do Trung tâm
lưu ký chứng khoán Việt Nam chốt từ đầu năm.
Đây là một quyết định lạ và có một điều
chắc chắn là chính sách chia cổ tức kiểu này là không phổ biến trên thị trường.
Để đánh giá chính sách “giới tinh hoa” của công ty này có phù hợp với qui định
của pháp luật hay không, cần nhìn nhận ở hai khia cạnh: điều kiện chia cổ tức
và thẩm quyền.
Điều kiện chia cổ tức
Ngoại trừ trường hợp cổ phần ưu đãi cổ
tức hoặc một loại cổ phần ưu đãi nào đó, việc chia cổ tức [đối với cổ phần phổ
thông] về cơ bản phải đáp ứng hai điều kiện:
Một là: về mặt tài chính, công ty phải
có lợi nhuận. Có nghĩa công ty đã thanh toán các nghĩa vụ tài chính với nhà nước
(thuế), bên thứ ba (các khoản nợ) và đã thực hiện các trích lập tài chính hoặc
bù lỗ theo qui định. Đồng thời, sau khi chia cổ tức, công ty vẫn phải bảo đảm
khả năng thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn (Điều 135.2
Luật Doanh nghiệp).
Hai là: việc chia cổ tức phải mang
tính công bằng. Có nghĩa là mọi cổ đông với điều kiện sở hữu cùng loại cổ phần
sẽ được chia cổ tức như nhau (Điều 114.4 Luật Doanh nghiệp).
Thẩm quyền quyết định việc chia cổ tức
Việc chia cổ tức mang trong mình hai
yếu tố quan trọng. Yếu tố thứ nhất đó là chuyện các nhà đầu tư quyết định sẽ ứng
xử như thế nào với thành quả đầu tư của họ: tiếp tục tái đầu tư hay rút ra để
làm những việc khác. Yếu tố thứ hai đó là việc dành cho những người thay mặt
các nhà đầu tư quản lý dòng tiền quyền được chủ động về dòng tiền và các nguồn
tài chính cho các hoạt động kinh doanh. Ghi nhận thành luật, nó trở thành qui
trình 3 bước trong việc chia cổ tức như sau:
Bước 1: Hội đồng quản trị (HĐQT), sau
một năm tài chính thành công, họ sẽ đề xuất việc chia cổ tức (và trong đó có thể
là mức tổ tức được chia hoặc hình thức chia cổ tức)( Điều 153.2(o) Luật Doanh
nghiệp).
Bước 2: Đại hội đồng cổ đông dựa trên
đề xuất của HĐQT sẽ quyết định chấp thuận hoặc không chấp thuận việc chia cổ tức
(Điều 138.2(b) Luật Doanh nghiệp).
Bước 3: Sau khi được ĐHĐCĐ thông qua,
HĐQT sẽ là người quyết định thời điểm chia cũng như hình thức chia cổ tức trong
cân nhắc về các kế hoạch tài chính chung của công ty. Tất nhiên, việc này có một
giới hạn là nó phải xảy ra trong khoảng thời gian tối đa là 6 tháng kể từ ngày
họp ĐHĐCĐ thường niên (Điều 135.4 Luật Doanh nghiệp).
Nhìn từ các nguyên tắc đề cập ở trên
áp dụng vào tình huống đề cập ở đầu bài, có mấy điều sau đây được rút ra:
Thứ nhất: về mặt lợi ích mà nhóm tinh
hoa được hưởng theo chính sách cổ tức mà HĐQT thông báo, các lợi ích này không
dựa trên bất kì một nguyên tắc pháp lý nào cả. Nó vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc
bình đẳng về quyền của các cổ đông mà luật doanh nghiệp qui định. Các cổ đông
khi sở hữu cùng loại cổ phần, họ phải hưởng một mức cổ tức/mỗi cổ phần là như
nhau. Luật không có bất kì qui định nào cho phép nhóm cổ đông lớn có quyền hưởng
mức cổ tức/cổ phần cao hơn các cổ đông thiểu số;
Thứ hai: Ở đây có sự không rạch ròi về
khoản góp vốn (thông qua việc mua cổ phần của công ty) và khoản vay mà cổ đông
cho công ty vay. Việc một cổ đông cho công ty vay (nếu có) sẽ hình thành nên
hai mối quan hệ giữa người đó với công ty: (i) quan hệ cổ đông với công ty; và
(ii) quan hệ chủ nợ với con nợ. Cổ đông thì sẽ được hưởng cổ tức, còn chủ nợ
thì sẽ được hưởng lãi của khoản cho vay. Việc cho công ty vay không bao giờ là
căn cứ để người này được hưởng cổ tức với mức cao hơn các cổ đông khác không
cho công ty vay. Khi HĐQT dành cho các cổ đông “giới tinh hoa” được hưởng cổ tức
cao hơn và được trợ cấp 5 triệu/tháng sẽ khiến cho vấn đề hoạch toán về kế toán
sẽ không thực hiện được trong trường hợp này; và
Thứ ba: Nhìn từ góc độ thẩm quyền,
HĐQT chỉ có quyền đề xuất việc chia cổ tức và chỉ được thực hiện sau khi được
ĐHĐCĐ đồng ý. Đối chiếu với tình huống, rõ ràng HĐQT đã có một quyết định trái
pháp luật. Điều này sẽ khiến cho các thành viên đã đồng ý trong quyết định này
đứng trước rủi ro phải bồi thường trong các vụ kiện đối với người quản lý được
thực hiện bởi cổ đông của công ty.
Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền
lợi của mình, các cổ đông có thể cân nhắc việc yêu cầu triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ
với lý do Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông hoặc ra quyết
định vượt quá thẩm quyền được giao (Điều 115.3(a). Lưu ý là để có thể thực hiện
điều này, cổ đông phải sở hữu hoặc cùng nhau sở hữu ít nhất là 5% tổng số cổ phần
phổ thông) hoặc khởi kiện ra toà án, trọng tài để yêu cầu huỷ bỏ nghị quyết này
và yêu cầu các thành viên HĐQT bồi thường các thiệt hại nếu có (Điều 153.4 Luật
Doanh nghiệp).
Nhận xét
Đăng nhận xét