Chuyển đến nội dung chính

Bình luận quyết định của hội đồng cạnh tranh về việc tập trung kinh tế của GRABTAXI


Bài viết này đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12(338) T6/2019. Bài viết Nhận được sự hỗ trợ từ chương trình HR2020  của Quỹ Marie SkalodowSkalodowska-Curie của Ủy ban Châu Âu.

Dẫn nhập
Giao dịch Grab mua lại hoạt động kinh doanh của Uber đầu năm 2018 đã gây nên những xáo trộn trong lĩnh vực vận chuyển hành khách bằng ô tô dưới 9 chỗ và mô tô. Đồng thời, nó cũng đặt ra vấn đề liệu giao dịch này có phải là hành vi tập trung kinh tế theo qui định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam? Trên cơ sở đó, ngày 17 tháng 6 năm 2019 Hội đồng cạnh tranh đã có quyết định số 26/QĐ-HĐXL (sau đây gọi tắt là Quyết định số 26/QĐ-HĐXL) xử lý vụ việc. Tuy vậy, từ Quyết định số 26/QĐ-HĐXL nổi lên các vấn đề pháp lý sau đây cần phải được trao đổi lại: (i) Thị trường liên quan, (ii) Chủ thể của hành vi, (iii) Giao dịch này có phải là hành vi tập trung kinh tế hay không.

Bình luận

1.        Thị trường liên quan

1.1      Thị trường sản phẩm liên quan
Theo qui định tại khoản 1 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 (sau đây gọi tắt là LCT) thì thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Theo đó, khoản 1 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP xác định “thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Trong báo cáo điều tra của Cục quản lý cạnh tranh (sau đây gọi tắt là VCA) thì “thị trường sản phẩm liên quan là thị trường dịch vụ trung gian kết nối vận tải giữa người đi xe và lái xe ô tô dưới 09 chỗ trên nền tảng phần mềm và tổng đài”.

Theo tác giả việc xác định thị trường sản phẩm liên quan trong trường hợp này chưa thật sự thuyết phục. Lý do cho việc VCA xác định thị trường sản phẩm liên quan chỉ là “thị trường dịch vụ trung gian kết nối vận tải giữa người đi xe và lái xe ô tô dưới 09 chỗ trên nền tảng phần mềm và tổng đài” xuất phát từ việc VCA lấy quyết định số 24/QĐ-BGTVT ngày 7 tháng 1 năm 2016 của Bộ Giao thông vận tải làm xuất phát điểm. Ý nghĩa thật sự của thị trường liên quan nói chung và thị trường sản phẩm liên quan nói riêng nằm ở khía cạnh “khả năng thay thế về cầu”. Điều ấy có nghĩa là khi người tiêu dùng có nhu cầu về hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó, ngoài doanh nghiệp X nào đó, thì người tiêu dùng có thể thỏa mãn nhu cầu của mình bằng việc mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ từ doanh nghiệp Y nào đó hay không.

Cách xác định của VCA không chính xác ở chỗ nếu thị trường sản phẩm là thị trường dịch vụ trung gian kết nối vận tải giữa người đi xe và lái xe ô tô dưới 09 chỗ trên nền tảng phần mềm và tổng đài, có nghĩa Grab và/hoặc Uber (sau đây để thuận tiện, xin gọi tắt là Grab) sẽ có mối quan hệ với cả hai đối tượng là khách hàng và tài xế. Điều đó có nghĩa, cả khách đi xe và tài xế điều là những người đang sử dụng dịch vụ của Grab. Grab sẽ đóng vai trò là một đơn vị trung gian và sẽ tính phí dịch vụ đối với hai đối tượng này.

Với cách tiếp cận như vậy, các hãng taxi sẽ không phải là doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan với Grab và Uber. Bởi, khi khách hàng của các hãng taxi sử dụng các ứng dụng của hãng taxi (sau đây gọi tắt là App) hoặc gọi điện thoại đến tổng đài, họ đang giao dịch với chính hãng taxi chứ không phải thông qua một bên thứ ba nào cả. Ý nghĩa của các app mà các hãng taxi làm ra và/hoặc tổng đài điện thoại mà họ có đơn thuần chỉ là cách thức để khách hàng liên lạc với hãng taxi và có thể sử dụng dịch vụ. Nói cách khác, app của các hãng taxi nó là một công cụ nằm trong gói dịch vụ vận chuyển hành khách đơn lẻ theo yêu cầu của khách hàng bằng ô tô dưới 9 chỗ. Trong khi đó, ý nghĩa của app của Grab là hành vi mang tính đơn thuần cung cấp dịch vụ trung gian giữa người muốn cung cấp dịch vụ vận chuyển và người có nhu cầu di chuyển bằng ô tô dưới 9 chỗ.

Nhưng trong suốt quá trình điều tra, VCA luôn bám theo hướng các hãng taxi là đối thủ cạnh tranh (nằm trên cùng thị trường liên quan với Grab và Uber). Điều này thiếu logic và không nhất quán.

Nhìn từ góc độ hoạt động, một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận chuyển hành khách bằng ôtô [dưới 9 chỗ] có thu phí luôn có các đặc tính sau:
§  Họ có một đội ngũ tài xế và xe để vận chuyển khách hàng.
§  Quyết định mức phí, các chương trình khuyến mại đối với dịch vụ vận chuyển và thu được các phí này.

Từ góc độ này, ta thấy bản chất Grab là một hãng taxi. Bởi họ có sẵn đội ngũ tài xế, xe ôtô để vận chuyển khách hàng. Điều quan trọng là những tài xế chạy xe cho Grab không có quyền quyết định giá cước đối với khách hàng. Chính điều này mới chính là điểm cốt lõi thể hiện bản chất “hãng taxi” của Grag chứ không phải chỉ là một đơn vị trung gian như cách mà VCA đang khẳng định.

Nhìn từ góc độ của khách hàng, họ có nhu cầu di chuyển bằng ôtô dưới 9 chỗ, một cách truyền thống họ sẽ gọi taxi. Tuy nhiên, giờ đây họ có thể THỎA MÃN nhu cầu này bằng cách mở app của Grab. Nói cách khác, khách hàng có nhu cầu cần được chở bằng ôtô có trả phí và Grab có khả năng đáp ứng nhu cầu của họ giống như một hãng taxi. Bất kể định danh của Quyết định số 24/QĐ-BGTVT như thế nào, trong mắt khách hàng, Grab là một hãng taxi cũng như các hãng taxi [truyền thống] khác đang tồn tại trên thị trường.

Cho nên, cần phải xác định chính xác thị trường liên quan trong trường hợp này sẽ là THỊ TRƯỜNG CUNG CẤP DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN BẰNG ÔTÔ DƯỚI 9 CHỖ CÓ THU PHÍ. Chỉ khi đó, mới tính tiếp đến việc các hãng taxi có nằm trên thị trường liên quan với Grab hay không.

Đồng thời, tại thời điểm tiến hành, cả Grab và Uber đều cung cấp dịch vụ vận chuyển bằng xe mô tô. Trong trường hợp này, đối thủ của Grab và Uber là các tài xế xe ôm đơn lẻ trên các khu vực địa lý mà hai hãng này đang hoạt động. Nhưng viẹc VCA không xác định đây là thị trường liên quan là một thiếu sót.

1.2.     Cách tiến hành khảo sát phản ứng người dùng khi Grab thay đổi giá
Một trong những điều kiện để xác định các doanh nghiệp nằm trên cùng thị trường liên quan hay không chính là xác định các doanh nghiệp này có cung cấp hàng hóa, dịch vụ với mức giá có thể thay thế cho nhau hay không. Theo điểm c khoản 5 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP thì “hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế được cho nhau về giá cả nếu trên 50% của một lượng mẫu ngẫu nhiên 1.000 người tiêu dùng sinh sống tại khu vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng hóa, dịch vụ khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên quá 10% và được duy trì trong 06 tháng liên tiếp”.

Trên cơ sở đó, VCA đã tiến hành khảo sát khoảng 1000 người mỗi thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh. Cụ thể tại Hà Nội khi giá dịch vụ của Uber tăng quá 10%, có 51,05% số người được hỏi cho biết sẽ không sử dụng dịch vụ của Uber, trong đó 58,21% số người được hỏi sẽ chuyển sang gọi taxi truyền thống để thay thế. Cách làm này áp dụng tương tự cho Grab và thị trường thành phố Hồ Chí Minh. Cách điều tra này của VCA theo tác giả là tiến hành một cách dễ dãi và chưa bảo đảm thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp. Có thể lý giải thông qua các điểm sau:

Thứ nhất: Đặc thù của các hãng như Grab họ luôn đưa ra các mức giá rất khác nhau. Sự khác nhau này phụ thuộc vào các chương trình khuyến mại, thời gian di chuyển và thời tiết. Cho nên, VCA phải trả lời cho câu hỏi, mức giá được đưa ra khảo sát là mức giá được xác định như thế nào. Việc VCA sử dụng nguyên văn của qui định tại điểm c khoản 5 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP để làm phiếu khảo sát không phản ánh hết thực tiễn định giá của các doanh nghiệp và tính máy móc không đáng có từ một cơ quan quản lý về cạnh tranh.

Thứ hai: Không có khái niệm “taxi truyền thống”. Sự nhạy cảm của phản ứng người dùng được điểm c khoản 5 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP đo bằng sự thay đổi giá rất nhỏ là “tăng lên quá 10%”. Cho nên, các hãng taxi giá rẻ và các hãng taxi lớn trên thị trường, không hẳn cứ là doanh nghiệp taxi, thì đã là doanh nghiệp nằm trên cùng thị trường liên quan. Một cách trực quan, có thể hình dung điều này thông qua cách tính phí như sau:

§           Hãng taxi A (giá rẻ): 02 km đầu: 7500 VND/km, mỗi km tiếp theo là 5500/km.
§         Hãng taxi B: 02 km đầu 12500 VND/km, mỗi km tiếp theo là 7500/km.

Ngay cả khi A tăng giá lên 12% so với ví dụ trên và duy trì trong 6 tháng liên tiếp, không chắc là người dùng sẽ chuyển sang hãng B. Nói cách khác, tự thân các doanh nghiệp cùng cung cấp dịch vụ taxi không làm cho các doanh nghiệp này cũng nằm trên một thị trường sản phẩm liên quan.

Cho nên khi VCA tự động xếp các hãng cung cấp dịch vụ taxi một cách mặc định là cùng nằm trên một thị trường sản phẩm liên quan chẳng những thể hiện sự thiếu cẩn trọng mà quan trọng hơn nó sai hoàn toàn với yêu cầu về xác định thị trường sản phẩm liên quan được qui định tại điểm c khoản 5 Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP.

2. Chủ thể của hành vi tập trung kinh tế

Theo quyết định thì có hai doanh nghiệp bị điều tra đối với hành vi tập trung kinh tế là Công ty TNHH GrabTaxi và Công ty TNHH Uber Việt Nam. Bên cạnh đó, Công ty Uber B.V. (Hà Lan) được xác định là người có quyền, nghĩa vụ liên quan.

Công ty Uber Việt Nam khẳng định họ không và chưa bao giờ hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực gọi xe hay cung cấp dịch vụ vận tải tại Việt Nam. Uber Việt Nam chỉ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ (như marketing, điều tra, khảo sát thị trường...) cho Công ty Uber B.V., một thực thể nước ngoài vận hành ứng dụng Uber và đây là các dịch vụ thông thường, ngoài Uber Việt Nam còn nhiều công ty khác có thể cung cấp  cho Công ty Uber B.V. những dịch vụ này.

Để có thể xác định chủ thể của hành vi “tập trung kinh tế”, cần thiết phải nhìn từ góc độ vận hành của mô hình mà Grab và Uber đang sử dụng để kinh doanh trong lĩnh vực vận chuyển hành khách bằng taxi tại Việt Nam. Theo đó, có hai đầu việc cơ bản để cho hoạt động kinh doanh có thể tiến hành được: Một là hoạt động vận hành và hai là các hoạt động hỗ trợ.

Vận hành được hiểu là doanh nghiệp (Grab và/hoặc Uber) phải kết nối được khách hàng đang có nhu cầu muốn đi xe với các tài xế chạy xe. Theo đó, đơn vị nào chịu trách nhiệm cho việc vận hành phải xây dựng ứng dụng và luôn bảo đảm rằng ứng dụng này luôn trong tình trạng hoạt động tốt.

Các hoạt động hỗ trợ được hiểu là bất kì hoạt động nào [trong chừng mực không vi phạm điều cấm của pháp luật] giúp cho khách hàng biết đến dịch vụ vận chuyển của Grab và/hoặc Uber để qua đó thúc đẩy họ sử dụng dịch vụ. Có thể kể đến các hoạt động như marketing, phân tích thị trường, dữ liệu người dùng, cơ sở dữ liệu bản đồ... Tất cả những yếu tố này có tác dụng lớn trong việc giúp Grab cải thiện dịch vụ và cạnh tranh tốt hơn trên thị trường vận chuyển.

Bởi thế, tôi đồng ý với lập luận của Uber Việt Nam khi họ tranh luận rằng “Uber Việt Nam chỉ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ (như marketing, điều tra, khảo sát thị trường...) cho Công ty Uber B.V. và đây là các dịch vụ thông thường, ngoài Uber Việt Nam còn nhiều công ty khác có thể cung cấp  cho Công ty Uber B.V.”. Nhìn từ góc độ kỹ thuật, các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình như Grab có thể cân nhắc việc việc nhập chung cả hai hoạt động vận hành và hoạt động hỗ trợ bởi một doanh nghiệp duy nhất hoặc tách hai hoạt động này thành hai bộ phận [pháp nhân] khác nhau.
Cho nên, để xác định đâu là chủ thể thật sự của hành vi tập trung kinh tế, VCA phải trả lời cho câu hỏi: Doanh nghiệp nào có thể tác động cạnh tranh trên thị trường dịch vụ vận chuyển? Nhìn từ vụ việc này, Uber Việt Nam chỉ là đơn vị cung cấp các hoạt động hỗ trợ. Các hoạt động này nó sẽ xoay quanh và phục vụ cho vận hành ứng dụng Uber. Ngay cả khi Uber Việt Nam không tồn tại, xét về mặt kỹ thuật Uber B.V. vẫn có thể tiến hành hoạt động marketing, thuê hoặc mua dữ liệu từ các công ty khác. Các yêu cầu cho việc vận hành Ứng dụng Uber (được tiến hành và sở hữu bởi Uber B.V. – Hà Lan) sẽ quyết định mua dữ liệu nào, nghiên cứu hành vi người dùng cũng như các yêu cầu đối với các chiến lược marketing.

Trong vụ việc này, việc VCA xác định Uber Việt Nam là chủ thể của hành vi tập trung kinh tế là một sai lầm. Bởi như trên đã phân tích, chính Uber B.V. mới là chủ thể của hành vi. Bởi chính doanh nghiệp này mới là doanh nghiệp đang tiến hành cung cấp các dịch vụ vận chuyển tại thị trường Việt Nam. Lý giải cho việc tại sao bên cạnh Hợp đồng mua bán chung (Perchase Agreement), tại Việt Nam các bên phải kí thêm Hợp đồng chuyển nhượng và tiếp nhận nghĩa vụ (Bill of Sale), bởi ngoài việc phải xứ lý mối quan hệ với các tài xế và khách hàng, thì bên mua phải sở hữu cơ sở dữ liệu của thị trường Việt Nam. Chính các cơ sở dữ liệu này, khi tích hợp vào hệ thống của bên mua, nó sẽ góp phần hoàn chỉnh hoạt động của bên mua, đặc biệt là đối với phần tài xế và khách hàng mà họ vừa tiếp nhận từ bên bán.

Đến đây, VCA sẽ phải trả lời cho câu hỏi: Luật cạnh tranh 2004 có áp dụng đối với pháp nhân nước ngoài hay không? Theo qui định tại Khoản 1 Điều 2, thì Luật Cạnh tranh sẽ áp dụng đối với “Tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam”.

Như vậy theo qui định này, các doanh nghiệp nước ngoài, nhưng có hoạt động tại Việt Nam vẫn chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh 2004. Và như phân tích ở trên, chính Uber B.V. chứ không phải Uber Việt Nam là doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan với Grab. Hệ quả là việc VCA xác định Uber Việt Nam là chủ thể của hành vi tập trung kinh tế là một sai lầm. Bởi, theo qui định tại Điều 18, Điều 20 LCT thì điều kiện tiên quyết của các vụ tập trung kinh tế là các doanh nghiệp tham gia vào vụ việc phải là các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan.

3. Hành vi tập trung kinh tế

Với cấu trúc giao dịch được xác lập từ Hợp đồng mua bán chung và Hợp đồng chuyển nhượng và Tiếp nhận nghĩa vụ, VCA đã xác định đây là một dạng chuyển giao tài sản và nghĩa vụ (mua bán tài sản) chứ không phải là hợp đồng mua bán cổ phần[1]. Theo đó, VCA nhận định giao dịch mua bán tài sản này sẽ dẫn đến hệ quả là Grab kiểm soát, chi phối toàn bộ hoạt động của Uber dựa trên hai lập luận sau:

Thứ nhất, giao dịch liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản theo đó bên mua có thể kiểm soát, chi phối hoạt động kinh doanh của bên bán. Trong bối cảnh của giao dịch, việc xác định quyền biểu quyết là không liên quan, vì giao dịch không phải là giao dịch chuyển nhượng vốn.

Thứ hai, theo các điều khoản của Hợp đồng mua bán chung, Grab mua lại toàn bộ hoạt động kinh doanh của Uber tại khu vực Đông Nam Á thông qua việc mua lại tài sản. Theo đó, toàn bộ tài sản liên quan đến hoạt động kinh doanh tại Đông Nam Á đều được chuyển giao cho Grab. Các tài sản chuyển giao không chỉ bao gồm tài sản của các công ty con của Uber tại Đông Nam Á (bao gồm Uber Việt Nam), mà bao gồm cả một số tài sản của các công ty Uber tại Hà Lan là một phần hoạt động kinh doanh của Uber tại thị trường Đông Nam Á cũng được chuyển giao cho Grab[2].

Theo qui định tại Điều 16 Luật Cạnh tranh 2004, có 5 hành vi được xác định là tập trung kinh tế bao gồm: (i) Sáp nhập doanh nghiệp; (ii) Hợp nhất doanh nghiệp; (iii) Mua lại doanh nghiệp; (iv) Liên doanh giữa các doanh nghiệp và (v) Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Xét về mặt logic, hành vi của Grab và Uber phải rơi vào một trong 5 trường hợp nêu tại Điều 16 LCT thì mới đủ cơ sở để bàn tiếp hành vi tập trung kinh tế này là bị cấm hay không? Cho nên, trong trường hợp nếu giao dịch giữa Grab và Uber không thuộc phạm vi của Điều 16 thì cũng có nghĩa hành vi của họ không chịu sự điều chỉnh của LCT 2004.

Theo các qui định của pháp luật Việt Nam tính đến ngày 25.03.2018 (ngày ký kết hợp đồng mua bán chung giữa Grab và Uber) thì không có qui định nào khác ngoài 4 trường hợp được liệt kê từ khoản 1 đến khoản 4 của Điều 16 LCT 2004. Trên cơ sở đó VCA xác định giao dịch giữa Grab và Uber là hành vi mua lại doanh nghiệp theo qui định tại khoản 3 Điều 17 LCT 2018[3].

Theo qui định của Khoản 3 Điều 17, hành vi mua lại doanh nghiệp sẽ có hai dạng là mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác. Hệ quả của hành vi mua này là sẽ dẫn đến việc bên mua có quyền kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Theo hướng dẫn của Điều 34 Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh thì “kiểm soát hoặc chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp khác quy định tại khoản 3 Điều 17 của Luật Cạnh tranh là trường hợp một doanh nghiệp (sau đây gọi là doanh nghiệp kiểm soát) giành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp khác (sau đây gọi là doanh nghiệp bị kiểm soát) đủ chiếm được trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp kiểm soát chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát nhằm thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát”.

Về mặt thực tiễn, có hai cách để bên mua có thể kiểm soát và/hoặc chi phối hoạt động của bên bán tùy thuộc vào cấu trúc giao dịch là mua cổ phần hay mua tài sản. Nếu cấu trúc giao dịch là mua bán cổ phần (hoặc phần phần vốn góp) thì bên mua phải sở hữu mức cổ phần đủ để kiểm soát các quyết định của cơ quan cao nhất trong công ty (Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên tùy thuộc vào mô hình của bên bán). Trong trường hợp cấu trúc giao dịch là mua bán tài sản, thì vấn đề đã trở nên khác hoàn toàn. Với bản chất mua đứt bán đoạn, bản thân các thỏa thuận mua bán không thể giúp bên mua kiểm soát hoạt động kinh doanh của bên bán hoặc thậm chí ngăn cản việc gia nhập trở lại thị trường sau khi giao dịch hoàn tất nếu không kèm theo đó là các thỏa thuận chống cạnh tranh hoặc sử dụng các công cụ liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ làm rào cản.

Tuy nhiên, hướng dẫn của Nghị định 116/2005/NĐ-CP chỉ xác định quyền kiểm soát thông qua một tiêu chí duy nhất là quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị[4]. Nói cách khác, nếu hành vi mua tài sản nhưng không mag lại cho bên mua quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị thì sẽ không bị coi là hành vi mua lại theo qui định tại Khoản 3 Điều 16 và Khoản 3 Điều 17 LCT 2004. Như vậy, mặc dù lập luận của VCA là phù hợp với thực tiễn thị trường, nhưng nhìn từ góc độ qui định của pháp luật cạnh tranh lập luận này không chính xác. Nhìn từ góc độ này tác giả đồng ý với nhận định của Hội đồng xử lý vụ việc cho rằng giao dịch giữa Grab và Uber không đủ yếu tố cấu thành hành vi tập trung kinh tế với lập luận “công ty TNHH GrabTaxi đã giành được quyền sở hữu tài sản của công ty TNHH Uber Việt Nam. Tuy nhiên [...], sau khi nhận chuyển nhượng tài sản từ công ty TNHH Uber Việt Nam, công ty TNHH GrabTaxi không tham gia quản lý công ty TNHH Uber Việt Nam, không chiếm bất kì tỷ lệ quyền bỏ phiếu nào trong các cơ quan quản lý của công ty TNHH Uber Việt Nam[5].

4.     Một vài nhận xét về lập luận của Hội đồng xử lý

Trong vụ này, phân tích và cả phần quyết định của Hội đồng xử lý chưa đến 4 trang A4. Trong đó có nhiều điểm mà đáng lý phải được nhận định nhưng vì một lý do nào đó, bị bỏ qua.
Điểm thứ nhất là xác định thị trường liên quan trong vụ tập trung kinh tế. Theo LCT 2004, thị phần là tiêu chí duy nhất để xác định một vụ tập trung kinh tế được tiến hành, phải báo cáo hay cấm[6]. Mặc dù không đồng ý với kết luận của VCA về cách xác định thị trường liên quan, nhưng tác giả đồng tình với VCA khi họ đã có sự đầu tư đáng kế khi xác định thị trường liên quan và các yếu tố có liên quan đến thị trường liên quan như phản ứng của người dùng khi thay đổi giá, thị phần của các bên có liên quan. Vụ việc đang được đề cập đang phản ánh sự bùng nổ của một mô hình kinh doanh mới, tạo nên sức ép lên các doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức truyền thống. Với tính cách là cơ quan cạnh tranh, nhưng việc không xác định được hoặc cố tình bỏ qua thị trường liên quan, để từ đó nhận diện được bản chất của cạnh tranh và vai trò của doanh nghiệp trong thị trường liên quan, thì khó mà thuyết phục được các bên về các đánh giá có hay không hành vi xâm phạm đến cạnh tranh trên thị trường.

Điểm thứ hai bị Hội đồng xử lý bỏ qua một cách đáng tiếc là xác định chủ thể của hành vi (bên bị điều tra). Điểm này chính là hệ quả của việc xác định thị trường liên quan. Chỉ khi xác định được thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan, cơ quan cạnh tranh (VCA và Hội đồng xử lý) mới xác định được doanh nghiệp nào đang tác động đến cạnh tranh để từ vai trò của doanh nghiệp trên thị trường mà xác định tư cách của doanh nghiệp trong tố tụng cạnh tranh là bên bị điều tra hay chỉ là người có liên quan.

Điểm thứ ba đó là Hội đồng xử lý vụ việc đã khá vội vàng khi quyết định không chấp nhận đề nghị của cơ quan điều tra về việc áp dụng mức phạt và biện pháp khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh đối với Công ty TNHH GrabTaxi và Công ty TNHH Uber Việt Nam. Bởi, dựa trên một luận điểm duy nhất là giao dịch giữa Grab và Uber không thỏa mãn dấu hiệu của khoản 3 Điều 17 LCT 2004 để ra quyết định là chưa đánh giá đầy đủ các khía cạnh của vụ việc. Trong trường hợp này, với các tình tiết bị bỏ sót như phân tích ở trên, có thể cân nhắc áp dụng Khoản 2 Điều 81 LCT 2004 để trả lại hồ sơ vụ việc cạnh tranh cho cơ quan quản lý cạnh tranh và yêu cầu điều tra bổ sung.


[1] Đoạn 1 của mục 1 Quyết định 26/QĐ-HĐXL
[2] Đoạn 2 và Đoạn 3 của Mục 1 Quyết định 26/QĐ-HĐXL
[3] Mục 1 Quyết định 26/QĐ-HĐXL
[4] Điều 34 Nghị định 116/2005/NĐ-CP
[5] Mục III.1 Quyết định 26/QĐ-HĐXL
[6] Điều 18, Điều 20 Luật Cạnh tranh 2004


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Vai trò của Quản trị trong vụ khủng hoảng tại Lộc Trời

  Chủ tịch Hội đồng quản trị của Lộc Trời trong cuộc phỏng vấn truyền thông gần đây đã bày tỏ rằng  Lộc Trời đã sai lầm trong việc chọn người dẫn dắt và điều hành. Công ty đã ở trong một trận đánh mà có nội gián vào sâu bên mình nhưng mình lại giao quyền điều hành cho người đó. Người đó có thể coi như đã dẫn công ty vào một cái bẫy và chúng ta bị địch phục kích ở đó. Kịch bản được đưa ra vô cùng tinh vi. [Nguồn: Nhipsongthitruong ngày 08/10/2024]

Bộ Nguyên tắc Hợp Đồng Thương mại Quốc tế

Principles Of international commercial contracts (PICC) của International Institute for the Unification of Private Law (UNIDROIT) xứng đáng là cuốn sách gối đầu giường, dù là người đã hành nghề nhiều năm trong lĩnh vực Hợp đồng hay đang bước đầu tìm hiểu lĩnh vực Pháp Luật Hợp Đồng thì cuốn này vẫn phù hợp với bạn.

Du học: Khoản đầu tư lời hay lỗ?

Bố mẹ chi gần 9 tỷ đồng du học, cô gái 30 tuổi nhẩm tính làm 19 năm mới đủ “hồi vốn”: Nhiều du học sinh “vỡ mộng” khi về nước vì "lỗ to" bất ngờ. Đây là tựa một bài báo mà tôi đọc được sáng nay. Chắc cũng có kha khá bạn du học tự túc sẽ có cảm nhận tương tự. Nhân một ngày nắng đẹp, tôi nói chuyện Lời Lỗ Khi Du Học cho bạn nghe nhen. Cái gì thú vị thì nghe, không đồng ý cũng không sao, miễn đừng quạu...